Chương 14
Thiên trường địa cửu cũng có lúc tận cùng
Dịch: Hallie / Beta: Raph
---
Trước lúc bình minh thoáng đãng hiện lên, bỗng nghe thấy mấy tiếng chim hót.
Bóng tối trong điện được ánh sáng trong veo như lòng trắng trứng làm loãng, không còn đậm đặc nữa.
Trời sắp sáng rồi, cũng nên tỉnh mộng thôi.
"Tiểu Phi, đệ muốn làm thế nào?" Thẩm Kính Tùng mệt mỏi rúc trong lòng Ngọc Trần Phi, bình tĩnh hỏi.
Y đã lượt bớt đi rất nhiều lời sáo rỗng như câu: Đệ muốn làm gì? Ngọc Trần Phi còn làm gì được nữa. Nước mất, nhà tan, cha và anh trai qua đời, thuộc hạ mất. Còn làm gì được nữa đây?
Huyết hải thâm cừu thế này mà bỏ qua thì quả thật là uổng kiếp làm người. Huống hồ Ngọc Trần Phi vốn là kẻ hung hăng, bụng dạ hẹp hòi.
Hắn đã sớm không còn là chú rồng trắng ngao du khắp tầng trời mây, rút gân lột da và mang trong người dòng máu của loài sói cô độc trên thảo nguyên Tây U.
Sói là loài động vật thù dai nhất trên đời.
Lần này gặp lại, Thẩm Kính Tùng ôm một phần nghìn tham vọng.
Một là mong Ngọc Trần Phi chỉ trút giận lên một mình y. Hai là y mong mình có thể dốc hết sức để đền bù cho hắn, yêu thương hắn, chăm sóc hắn, cho hắn một gia đình, để hắn không phải lang thang nữa.
Nếu thù hận không thể xóa bỏ ngay bằng một nét bút, thì liệu tình cảm có thể xoa dịu vết thương không?
Nhưng trước thâm thù đại hận này, Thẩm Kính Tùng y là cái thá gì chứ.
Tình cảm không thể xoa dịu, hận thù không thể xóa nhòa.
Trong ánh nắng ban mai nhàn nhạt, cung điện ẩn mình trong bóng tối như dần hiện lên, chầm chậm lộ ra nguyên hình của nó.
Sảnh đường vốn để thờ thần bị một cánh cửa mật ấn bằng đồng đen chiếm đóng, trên đó có bóng hoa hợp hoan ngoài điện đu đưa.
Ngọc Trần Phi nắm lấy tay y, viết từng nét đáp lời y.
"Ta muốn cả thiên hạ cùng chết."
Nỗi hận vong quốc diệt tộc phải cho cả thiên hạ trả giá!
——Ta muốn cả giang sơn này lại dấy lên chiến hỏa, ngàn vạn xác thây, máu chảy nghìn dặm, người người mất đi gia đình quyến thuộc, bờ Nam bờ Bắc phải khoác khăn tang, mới tế được cho cố quốc của ta, mới thỏa được nỗi hận của ta.
Đáp án chứa đầy máu tanh này chầm chậm được viết vào lòng bàn tay, cũng có chút cảm giác dịu dàng quấn quýt chứa đầy tình ý.
Cả người Thẩm Kính Tùng run rẩy, máu lạnh băng, nhưng đầu óc lại tỉnh táo vô cùng, giống như gác lại tình riêng, chỉ còn lại lí trí tách biệt đang hoạt động.
Suy nghĩ của hắn thay đổi liên tục, đắn đo không ngừng. Từ việc nhỏ như sợi tơ nhện trên đường đến việc lớn như thế cục thiên hạ, mưu đồ của Ngọc Trần Phi hiện ra sống động như thật.
"Đệ muốn làm cho Địch và Cảnh khai chiến?" Thẩm Kính Tùng rụt rè hỏi.
Năm xưa Địch quốc và Cảnh Triêu bắt tay hủy diệt Tây U. Hai nước dùng Thương Long Tuyết Sơn làm ranh giới, bình ổn thiên hạ. Địch quốc bò đến, ngày càng phất lên, nay đã gặt được thành quả, có thể là mối nguy hại cận kề.
Nhưng Thẩm Kính Tùng vẫn dám đánh cược vận nước với Mai Cựu Anh, vạch ra kế liên thủ với Địch quốc để tiêu diệt Tây U. Chuyện này thực sự đã cân nhắc kĩ lưỡng đến quốc sách trường kì của Địch quốc và Tây U.
Tây U là một dân tộc du mục thiếu nền móng vững chắc, được thế thì xâm lược phía Nam, mất thế thì tránh về phía Bắc. Cảnh quốc chỉ cần có chút nội loạn, gặp thêm địch mạnh xâm phạm thì vong quốc là chuyện sớm muộn. So ra, Địch quốc có thương mại phồn thịnh, văn minh tiến bộ không kém gì Cảnh quốc, theo đuổi nguyên tắc hợp tác cùng có lợi "cùng nhau làm giàu". Năm đó Địch quốc diệt được Tây U, ngoài việc tiến quân về phía Đông, còn vì Tây U đã cắt đứt liên kết thương mại với Cảnh quốc.
Cảnh Triêu và Địch quốc đều là con quái vật khổng lồ trong các lục địa. Mất đi màn chắn, hai nước đối đầu trực tiếp, khó tránh khỏi dần sinh ra thói bỉ ổi, nhưng không ai nuốt được ai. Mấy năm thương nhân qua lại, các gia tộc hào môn trong bộ máy chính quyền mỗi nước cũng có được của ăn của để, càng không muốn tự cắt đứt con đường tài lộc.
Tuy hai nước không liên minh kiên cố nhưng cũng xem như là lợi ích gắn kết với nhau, không phải bảo đánh là được.
Huống chi mấy năm nay Mai Cựu Anh thay hoàng đế giao quyền cho Thẩm Kính Tùng một tay chỉ đạo cải cách binh chế. Cảnh Triêu đã từ từ góp nghèo gom khổ, thay đổi diện mạo binh quyền. Tích góp thêm mười năm nữa, thì thật sự không còn sợ phải đánh nhau với Địch quốc.
Qua hai mươi năm nữa, chính là thời điểm ba mươi năm mà Mai Cựu Anh thường nói. Vì mưu tính sâu xa đến thế, lao tâm khổ tứ đến thế, chẳng trách hôm từ biệt Thẩm Kính Tùng, trong lòng hắn vô cùng rối rắm.
Tuy Thẩm Kính Tùng đã hết lòng bồi dưỡng rất nhiều thanh niên tướng lĩnh, nhưng vẫn không có tiếng tăm và tham vọng như y. Đáng lẽ phải thường thả họ ra để tôi luyện thêm mấy năm, tích lũy uy tín và vốn liếng. Y lại không màng đến đại cuộc, trong lúc cấp bách cũng chẳng thấy bóng dáng đâu. Xem ra đã yêu Ngọc Trần Phi đến điên cuồng. Đến cái tuổi này rồi mà lần đầu tiên mới được sống buông thả.
Y đã hi sinh quá nhiều. Y cũng là con người, thân xác phàm tục, có thất tình lục dục. Một thân một mình, có chết thì chết thôi, hiến thây cho non sông. Ấy vậy mà y đã có một đứa con trai ngoan ngoãn nhưng lắm bệnh, một lang quân bướng bỉnh nhưng bị thương.
Y có một gia đình lung lay nhưng vẫn có thể tránh gió che mưa.
Trước kia y làm lính, làm tướng. Nay y làm cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, làm người.
Lần đầu tiên đảm nhận việc đó, chân tay vụng về nhưng tiến bộ rất nhanh, dù sao cũng dụng tâm hết mức rồi.
Nếu có thời gian, nếu có thời gian... Nhưng mà không còn thời gian nữa. Nợ máu từ quá khứ đã vắt cạn đi sự vô tư thuần khiết của tương lai rồi.
Sớm biết sẽ thành tương tư, cần gì phải khổ tâm đến thế.
Ngọc Trần Phi viết: Ta yêu huynh.
Thẩm Kính Tùng nhắm mắt, in từng nét vẽ vào trong tim, "Ta biết, ta biết..." Y lẩm bẩm.
Lưỡng tình tương duyệt, họ chẳng ai phụ lòng ai.
Năm xưa Ngọc Trần Phi yêu y, y cũng đáp lại bằng tình yêu. Nay y đã không còn hi vọng gì với Ngọc Trần Phi, Ngọc Trần Phi cũng không nhẫn tâm làm tổn thương y.
Làm nhục ái nhân trong lúc không hề phòng bị thế này thì còn gì là đàn ông chứ.
Hơn nữa, nếu như cứ thế là đã hả giận, thì cũng quá xem nhẹ Ngọc Trần Phi rồi.
Ngọc Trần Phi lại nói, ta hận huynh nhưng không trách huynh.
Kẻ làm tướng kị nhất là lòng nhân từ của phụ nữ. Nhưng đổi lại là hắn, cho dù thủ đoạn hỏa công có tàn khốc thế nào thì hắn cũng sẽ làm như thế.
Sau đó hắn cười một tiếng, giống như trào phúng lại giống như cô độc.
——Nhưng ta vẫn trách huynh đấy, cái tên nhu nhược nhà huynh.
——Lúc đó, ta cứ đợi huynh mãi.
——Đợi huynh đến đấu với ta một trận.
Lúc đó, trước khi Ngọc Trần Phi vung kiếm tự vẫn đã cười, nói với Mộ Lan: "Ngươiấy à? Mơ đi."
Trong thiên hạ, người có thể đối đầu với ta chỉ có mình Thẩm Kính Tùng.
Thẩm Kính Tùng rơi nước mắt, nói: "Làm sao ta đấu với đệ được. Ta đã thất bại từ lâu rồi."
Ngọc Trần Phi nói: Lần này huynh không trốn được đâu, Thẩm tướng quân.
Cuối cùng hắn hôn lên môi Thẩm Kính Tùng, phớt qua lạnh băng, không chút quyến luyến.
Sau đó hắn chỉnh lại áo quần, đẩy cửa đồng ra. Phía sau cổng hình như là hoa viên sau thần cung, muôn hoa khoe sắc, hương thơm tỏa khắp nơi. Ngọc Trần Phi chẳng thèm nhìn, hắn liếc qua phía sau cánh cửa có khắc chìm hàng nghìn dòng chữ, sau khi nghiền ngẫm liền dùng vỏ kiếm gõ liên tục lên núm cửa, tựa như lấy tiếng của vàng, âm rung của ngọc làm ám hiệu.
Sau đó, quốc gia huyễn ảo thần thoại này mở ra thế giới thật phía sau hệt như một tấm kính vỡ.
Bọn họ quả thật đang ở trong ốc đảo sa mạc âm u, ẩm ướt. Có điều thần điện sớm đã sụp lún hơn phân nửa, bầu trời xanh thẳm lộ ra sáng sủa chói mắt giữa cỏ cây um tùm.
Hôm nay là một ngày đẹp trời. Thẩm Kính Tùng thẫn thờ, nghĩ.
Y không cầu xin nữa, cũng không hỏi gì thêm như câu: Đệ không cần ta nữa sao?
Ngọc Trần Phi sống tạm bợ suốt năm năm qua, cốt để chế ngự tử địch mà lênh đênh khắp nơi, mai danh ẩn tích, một lòng chờ đợi thời cơ, ý chí kiên quyết, làm sao chỉ vài lời của y mà lung lay được.
Bên ngoại điện đổ nát có hàng nghìn xe ngựa, người tùy tùng mất tích giữa đường có tên là Thanh Loan mỉm cười, chào hỏi Ngọc Trần Phi, "Chúc mừng chủ nhân tìm được bảo tàng".
Lại nghe có tiếng người cười nói: "Quả nhiên ta không nhìn nhầm người."
Ngày đó ở quán rượu tại thành Kiếm Thủy, Liên Hương công tử Tô Hợp sớm đã không còn chỉn chu, bạch y bụi bặm, buộc tóc lộn xộn, nhưng đầu óc lại rất tỉnh táo, hai mắt sáng rỡ, nhào tới, đưa bút viết, "Điện hạ, điện hạ, mau viết cho ta cách điều chế hương."
Ngọc Trần Phi viết xong liền tự mình lên ngựa, dắt người đi, không hề quay lại nhìn một cái.
Tô Hợp đọc lướt qua cách điều chế hương, cười lớn nói: "Ra là thế, lợi hại thật."
Rồi gã vui vẻ huơ tay múa chân một lúc sau mới nhìn thấy Thẩm Kính Tùng, bèn chào hỏi: "Thẩm tướng quân, lại gặp rồi. Nào nào nào, ta có xe ngựa, ta đưa ngài về Cảnh Triêu."
Thẩm Kính Tùng thất thần đi theo gã đến xe ngựa ở phía xa. Trong xe có một bội kiếm thiếu niên nằm nghiêng ngả, Tô Hợp moi ra một túi hương phe phẩy trước mũi hắn, vỗ mạnh lên má hắn: "Hoắc thiếu hiệp, dậy đi". Hoắc Tiểu Sơn lầm bầm phủi tay gã, Tô Hợp nói: "Hay quá nhỉ, coi chừng ta trừ lương ngươi!"
Hoắc Tiểu Sơn đột nhiên trừng mắt, trong mắt vẫn còn chút đờ đẫn, nhưng đã niềm nở chạy lên đánh xe.
Tô Hợp và Thẩm Kính Tùng cùng ngồi một xe, Thẩm Kính Tùng không nói một lời. Ngược lại Tô Hợp nhịn muốn chết rồi, gã giống như kẻ phản diện đã làm được việc lớn, chỉ đợi nhân vật chính vừa kinh ngạc vừa tức giận chất vấn, rồi sẽ dương dương tự đắc kể hết tiền căn hậu quả. Không ngờ Thẩm Kính Tùng chẳng buồn phối hợp diễn cùng gã.
"Thẩm tướng quân không muốn biết bảo tàng của Dược sư quốc ở đâu sao?"
Một lúc sau Thẩm Kính Tùng mới nghe rõ gã đang hỏi gì, đáp ngắn gọn: "Ở trong chiếc hồ bí mật kia."
"..." Tô Hợp dẫn dắt từng chút: "Nhưng sao tự dưng lại xuống nước?"
Thẩm Kính Tùng làm thinh, gã tức mình nói: "Đáng ghét thật! Nghiệp tự các người tạo ra, ngươi không muốn nghe luôn sao? Ngàn năm trước, vào tiết Long thần, hoàng đế khai quốc của Cảnh Triêu các người đem hàng vạn ngựa sát tấn công vương thành, Dược Sư quốc chủ không tiếc ngọc nát đá tan, cho nổ tung thượng du đê điều sông Nhiệt Não, lũ lụt khắp nơi, nhấn chìm cả tòa thành này, xương người và của cải mới bồi đắp vào phù sa."
Thẩm Kính Tùng im lặng.
Sử sách không ghi chép về Dược Sư quốc, không phải vì không tìm được nó mà là do kiêng kị. Kiêng kị chuyện thất đức không mấy vẻ vang này.
Tô Hợp nói: "Tuy ta đã nghe đến Dược Sư quốc trong các loại tiểu thuyết chí dị nhưng không để tâm. Đến khi xảy ra mớ chuyện của tên cướp ngựa, trong cung phái người đi tìm hương sư nên ta sáng ra ngay. Ta đi đâu được nữa, đi thì bị diệt khẩu. Ta vội trốn đi, chạy tới Địch quốc, vừa lúc gặp Bạch Long Hầu đang hỏi thăm hương sư. Ta và hắn sáp vào ngay. Ta điều chế hương dẫn đưa hắn vào huyễn cảnh, hắn chép phương pháp điều chế hương vào huyễn cảnh cho ta."
"Dược Sư quốc có ba loại kì hương. Một loại là Cực Lạc Thiên Hương Dẫn, có thể khiến người ta quên đói quên khát, không biết đau khổ. Một loại là Thiên Thượng Thiên Ngoại Thiên Vô Nhai, sau khi dùng, một ngày như ngàn năm. Còn loại thứ ba chính là Nhân Gian Vô Nghiệm Phản Hồn Hương, có thể khiến u hồn ở lại mãi mãi. Năm đó Dược sư quốc đứng bên bờ vong quốc, quốc chủ trộn hỗn hợp ba loại hương làm cho cả nước đi đến cái chết một cách yên bình, mãi mãi chìm trong ngày lễ cực lạc hôm đó."
"Nhưng huyễn cảnh của Dược sư quốc này cũng đúng nơi đúng chỗ. Ví dụ một hương sư như ta vào huyễn cảnh của ngàn năm trước cũng trở thành một hương sư quèn. Nhưng phương thức điều chế hương quý giá được khắc sau cánh cửa đồng của thần cung chỉ có vương mới mở ra được sau khi cúng tế. Vương không dễ tìm, thần kĩ lưỡng tính phản bội vương càng khó tìm hơn. Tên tướng quân làm hắn vong quốc như ngươi ấy, hai người diễn vở tuồng này đúng là cặp đôi trời sanh nha. Ha ha."
---
Tác giả có đôi lời: Lịch sử của thành Mi Gian tham khảo từ vương thành Hồi Hạc, kỉ vật và thần thoại đều tham khảo từ Ấn Độ.
.
.
.
Thiên trường địa cửu cũng có lúc tận cùng
Dịch: Hallie / Beta: Raph
---
Trước lúc bình minh thoáng đãng hiện lên, bỗng nghe thấy mấy tiếng chim hót.
Bóng tối trong điện được ánh sáng trong veo như lòng trắng trứng làm loãng, không còn đậm đặc nữa.
Trời sắp sáng rồi, cũng nên tỉnh mộng thôi.
"Tiểu Phi, đệ muốn làm thế nào?" Thẩm Kính Tùng mệt mỏi rúc trong lòng Ngọc Trần Phi, bình tĩnh hỏi.
Y đã lượt bớt đi rất nhiều lời sáo rỗng như câu: Đệ muốn làm gì? Ngọc Trần Phi còn làm gì được nữa. Nước mất, nhà tan, cha và anh trai qua đời, thuộc hạ mất. Còn làm gì được nữa đây?
Huyết hải thâm cừu thế này mà bỏ qua thì quả thật là uổng kiếp làm người. Huống hồ Ngọc Trần Phi vốn là kẻ hung hăng, bụng dạ hẹp hòi.
Hắn đã sớm không còn là chú rồng trắng ngao du khắp tầng trời mây, rút gân lột da và mang trong người dòng máu của loài sói cô độc trên thảo nguyên Tây U.
Sói là loài động vật thù dai nhất trên đời.
Lần này gặp lại, Thẩm Kính Tùng ôm một phần nghìn tham vọng.
Một là mong Ngọc Trần Phi chỉ trút giận lên một mình y. Hai là y mong mình có thể dốc hết sức để đền bù cho hắn, yêu thương hắn, chăm sóc hắn, cho hắn một gia đình, để hắn không phải lang thang nữa.
Nếu thù hận không thể xóa bỏ ngay bằng một nét bút, thì liệu tình cảm có thể xoa dịu vết thương không?
Nhưng trước thâm thù đại hận này, Thẩm Kính Tùng y là cái thá gì chứ.
Tình cảm không thể xoa dịu, hận thù không thể xóa nhòa.
Trong ánh nắng ban mai nhàn nhạt, cung điện ẩn mình trong bóng tối như dần hiện lên, chầm chậm lộ ra nguyên hình của nó.
Sảnh đường vốn để thờ thần bị một cánh cửa mật ấn bằng đồng đen chiếm đóng, trên đó có bóng hoa hợp hoan ngoài điện đu đưa.
Ngọc Trần Phi nắm lấy tay y, viết từng nét đáp lời y.
"Ta muốn cả thiên hạ cùng chết."
Nỗi hận vong quốc diệt tộc phải cho cả thiên hạ trả giá!
——Ta muốn cả giang sơn này lại dấy lên chiến hỏa, ngàn vạn xác thây, máu chảy nghìn dặm, người người mất đi gia đình quyến thuộc, bờ Nam bờ Bắc phải khoác khăn tang, mới tế được cho cố quốc của ta, mới thỏa được nỗi hận của ta.
Đáp án chứa đầy máu tanh này chầm chậm được viết vào lòng bàn tay, cũng có chút cảm giác dịu dàng quấn quýt chứa đầy tình ý.
Cả người Thẩm Kính Tùng run rẩy, máu lạnh băng, nhưng đầu óc lại tỉnh táo vô cùng, giống như gác lại tình riêng, chỉ còn lại lí trí tách biệt đang hoạt động.
Suy nghĩ của hắn thay đổi liên tục, đắn đo không ngừng. Từ việc nhỏ như sợi tơ nhện trên đường đến việc lớn như thế cục thiên hạ, mưu đồ của Ngọc Trần Phi hiện ra sống động như thật.
"Đệ muốn làm cho Địch và Cảnh khai chiến?" Thẩm Kính Tùng rụt rè hỏi.
Năm xưa Địch quốc và Cảnh Triêu bắt tay hủy diệt Tây U. Hai nước dùng Thương Long Tuyết Sơn làm ranh giới, bình ổn thiên hạ. Địch quốc bò đến, ngày càng phất lên, nay đã gặt được thành quả, có thể là mối nguy hại cận kề.
Nhưng Thẩm Kính Tùng vẫn dám đánh cược vận nước với Mai Cựu Anh, vạch ra kế liên thủ với Địch quốc để tiêu diệt Tây U. Chuyện này thực sự đã cân nhắc kĩ lưỡng đến quốc sách trường kì của Địch quốc và Tây U.
Tây U là một dân tộc du mục thiếu nền móng vững chắc, được thế thì xâm lược phía Nam, mất thế thì tránh về phía Bắc. Cảnh quốc chỉ cần có chút nội loạn, gặp thêm địch mạnh xâm phạm thì vong quốc là chuyện sớm muộn. So ra, Địch quốc có thương mại phồn thịnh, văn minh tiến bộ không kém gì Cảnh quốc, theo đuổi nguyên tắc hợp tác cùng có lợi "cùng nhau làm giàu". Năm đó Địch quốc diệt được Tây U, ngoài việc tiến quân về phía Đông, còn vì Tây U đã cắt đứt liên kết thương mại với Cảnh quốc.
Cảnh Triêu và Địch quốc đều là con quái vật khổng lồ trong các lục địa. Mất đi màn chắn, hai nước đối đầu trực tiếp, khó tránh khỏi dần sinh ra thói bỉ ổi, nhưng không ai nuốt được ai. Mấy năm thương nhân qua lại, các gia tộc hào môn trong bộ máy chính quyền mỗi nước cũng có được của ăn của để, càng không muốn tự cắt đứt con đường tài lộc.
Tuy hai nước không liên minh kiên cố nhưng cũng xem như là lợi ích gắn kết với nhau, không phải bảo đánh là được.
Huống chi mấy năm nay Mai Cựu Anh thay hoàng đế giao quyền cho Thẩm Kính Tùng một tay chỉ đạo cải cách binh chế. Cảnh Triêu đã từ từ góp nghèo gom khổ, thay đổi diện mạo binh quyền. Tích góp thêm mười năm nữa, thì thật sự không còn sợ phải đánh nhau với Địch quốc.
Qua hai mươi năm nữa, chính là thời điểm ba mươi năm mà Mai Cựu Anh thường nói. Vì mưu tính sâu xa đến thế, lao tâm khổ tứ đến thế, chẳng trách hôm từ biệt Thẩm Kính Tùng, trong lòng hắn vô cùng rối rắm.
Tuy Thẩm Kính Tùng đã hết lòng bồi dưỡng rất nhiều thanh niên tướng lĩnh, nhưng vẫn không có tiếng tăm và tham vọng như y. Đáng lẽ phải thường thả họ ra để tôi luyện thêm mấy năm, tích lũy uy tín và vốn liếng. Y lại không màng đến đại cuộc, trong lúc cấp bách cũng chẳng thấy bóng dáng đâu. Xem ra đã yêu Ngọc Trần Phi đến điên cuồng. Đến cái tuổi này rồi mà lần đầu tiên mới được sống buông thả.
Y đã hi sinh quá nhiều. Y cũng là con người, thân xác phàm tục, có thất tình lục dục. Một thân một mình, có chết thì chết thôi, hiến thây cho non sông. Ấy vậy mà y đã có một đứa con trai ngoan ngoãn nhưng lắm bệnh, một lang quân bướng bỉnh nhưng bị thương.
Y có một gia đình lung lay nhưng vẫn có thể tránh gió che mưa.
Trước kia y làm lính, làm tướng. Nay y làm cha, làm mẹ, làm chồng, làm vợ, làm người.
Lần đầu tiên đảm nhận việc đó, chân tay vụng về nhưng tiến bộ rất nhanh, dù sao cũng dụng tâm hết mức rồi.
Nếu có thời gian, nếu có thời gian... Nhưng mà không còn thời gian nữa. Nợ máu từ quá khứ đã vắt cạn đi sự vô tư thuần khiết của tương lai rồi.
Sớm biết sẽ thành tương tư, cần gì phải khổ tâm đến thế.
Ngọc Trần Phi viết: Ta yêu huynh.
Thẩm Kính Tùng nhắm mắt, in từng nét vẽ vào trong tim, "Ta biết, ta biết..." Y lẩm bẩm.
Lưỡng tình tương duyệt, họ chẳng ai phụ lòng ai.
Năm xưa Ngọc Trần Phi yêu y, y cũng đáp lại bằng tình yêu. Nay y đã không còn hi vọng gì với Ngọc Trần Phi, Ngọc Trần Phi cũng không nhẫn tâm làm tổn thương y.
Làm nhục ái nhân trong lúc không hề phòng bị thế này thì còn gì là đàn ông chứ.
Hơn nữa, nếu như cứ thế là đã hả giận, thì cũng quá xem nhẹ Ngọc Trần Phi rồi.
Ngọc Trần Phi lại nói, ta hận huynh nhưng không trách huynh.
Kẻ làm tướng kị nhất là lòng nhân từ của phụ nữ. Nhưng đổi lại là hắn, cho dù thủ đoạn hỏa công có tàn khốc thế nào thì hắn cũng sẽ làm như thế.
Sau đó hắn cười một tiếng, giống như trào phúng lại giống như cô độc.
——Nhưng ta vẫn trách huynh đấy, cái tên nhu nhược nhà huynh.
——Lúc đó, ta cứ đợi huynh mãi.
——Đợi huynh đến đấu với ta một trận.
Lúc đó, trước khi Ngọc Trần Phi vung kiếm tự vẫn đã cười, nói với Mộ Lan: "Ngươiấy à? Mơ đi."
Trong thiên hạ, người có thể đối đầu với ta chỉ có mình Thẩm Kính Tùng.
Thẩm Kính Tùng rơi nước mắt, nói: "Làm sao ta đấu với đệ được. Ta đã thất bại từ lâu rồi."
Ngọc Trần Phi nói: Lần này huynh không trốn được đâu, Thẩm tướng quân.
Cuối cùng hắn hôn lên môi Thẩm Kính Tùng, phớt qua lạnh băng, không chút quyến luyến.
Sau đó hắn chỉnh lại áo quần, đẩy cửa đồng ra. Phía sau cổng hình như là hoa viên sau thần cung, muôn hoa khoe sắc, hương thơm tỏa khắp nơi. Ngọc Trần Phi chẳng thèm nhìn, hắn liếc qua phía sau cánh cửa có khắc chìm hàng nghìn dòng chữ, sau khi nghiền ngẫm liền dùng vỏ kiếm gõ liên tục lên núm cửa, tựa như lấy tiếng của vàng, âm rung của ngọc làm ám hiệu.
Sau đó, quốc gia huyễn ảo thần thoại này mở ra thế giới thật phía sau hệt như một tấm kính vỡ.
Bọn họ quả thật đang ở trong ốc đảo sa mạc âm u, ẩm ướt. Có điều thần điện sớm đã sụp lún hơn phân nửa, bầu trời xanh thẳm lộ ra sáng sủa chói mắt giữa cỏ cây um tùm.
Hôm nay là một ngày đẹp trời. Thẩm Kính Tùng thẫn thờ, nghĩ.
Y không cầu xin nữa, cũng không hỏi gì thêm như câu: Đệ không cần ta nữa sao?
Ngọc Trần Phi sống tạm bợ suốt năm năm qua, cốt để chế ngự tử địch mà lênh đênh khắp nơi, mai danh ẩn tích, một lòng chờ đợi thời cơ, ý chí kiên quyết, làm sao chỉ vài lời của y mà lung lay được.
Bên ngoại điện đổ nát có hàng nghìn xe ngựa, người tùy tùng mất tích giữa đường có tên là Thanh Loan mỉm cười, chào hỏi Ngọc Trần Phi, "Chúc mừng chủ nhân tìm được bảo tàng".
Lại nghe có tiếng người cười nói: "Quả nhiên ta không nhìn nhầm người."
Ngày đó ở quán rượu tại thành Kiếm Thủy, Liên Hương công tử Tô Hợp sớm đã không còn chỉn chu, bạch y bụi bặm, buộc tóc lộn xộn, nhưng đầu óc lại rất tỉnh táo, hai mắt sáng rỡ, nhào tới, đưa bút viết, "Điện hạ, điện hạ, mau viết cho ta cách điều chế hương."
Ngọc Trần Phi viết xong liền tự mình lên ngựa, dắt người đi, không hề quay lại nhìn một cái.
Tô Hợp đọc lướt qua cách điều chế hương, cười lớn nói: "Ra là thế, lợi hại thật."
Rồi gã vui vẻ huơ tay múa chân một lúc sau mới nhìn thấy Thẩm Kính Tùng, bèn chào hỏi: "Thẩm tướng quân, lại gặp rồi. Nào nào nào, ta có xe ngựa, ta đưa ngài về Cảnh Triêu."
Thẩm Kính Tùng thất thần đi theo gã đến xe ngựa ở phía xa. Trong xe có một bội kiếm thiếu niên nằm nghiêng ngả, Tô Hợp moi ra một túi hương phe phẩy trước mũi hắn, vỗ mạnh lên má hắn: "Hoắc thiếu hiệp, dậy đi". Hoắc Tiểu Sơn lầm bầm phủi tay gã, Tô Hợp nói: "Hay quá nhỉ, coi chừng ta trừ lương ngươi!"
Hoắc Tiểu Sơn đột nhiên trừng mắt, trong mắt vẫn còn chút đờ đẫn, nhưng đã niềm nở chạy lên đánh xe.
Tô Hợp và Thẩm Kính Tùng cùng ngồi một xe, Thẩm Kính Tùng không nói một lời. Ngược lại Tô Hợp nhịn muốn chết rồi, gã giống như kẻ phản diện đã làm được việc lớn, chỉ đợi nhân vật chính vừa kinh ngạc vừa tức giận chất vấn, rồi sẽ dương dương tự đắc kể hết tiền căn hậu quả. Không ngờ Thẩm Kính Tùng chẳng buồn phối hợp diễn cùng gã.
"Thẩm tướng quân không muốn biết bảo tàng của Dược sư quốc ở đâu sao?"
Một lúc sau Thẩm Kính Tùng mới nghe rõ gã đang hỏi gì, đáp ngắn gọn: "Ở trong chiếc hồ bí mật kia."
"..." Tô Hợp dẫn dắt từng chút: "Nhưng sao tự dưng lại xuống nước?"
Thẩm Kính Tùng làm thinh, gã tức mình nói: "Đáng ghét thật! Nghiệp tự các người tạo ra, ngươi không muốn nghe luôn sao? Ngàn năm trước, vào tiết Long thần, hoàng đế khai quốc của Cảnh Triêu các người đem hàng vạn ngựa sát tấn công vương thành, Dược Sư quốc chủ không tiếc ngọc nát đá tan, cho nổ tung thượng du đê điều sông Nhiệt Não, lũ lụt khắp nơi, nhấn chìm cả tòa thành này, xương người và của cải mới bồi đắp vào phù sa."
Thẩm Kính Tùng im lặng.
Sử sách không ghi chép về Dược Sư quốc, không phải vì không tìm được nó mà là do kiêng kị. Kiêng kị chuyện thất đức không mấy vẻ vang này.
Tô Hợp nói: "Tuy ta đã nghe đến Dược Sư quốc trong các loại tiểu thuyết chí dị nhưng không để tâm. Đến khi xảy ra mớ chuyện của tên cướp ngựa, trong cung phái người đi tìm hương sư nên ta sáng ra ngay. Ta đi đâu được nữa, đi thì bị diệt khẩu. Ta vội trốn đi, chạy tới Địch quốc, vừa lúc gặp Bạch Long Hầu đang hỏi thăm hương sư. Ta và hắn sáp vào ngay. Ta điều chế hương dẫn đưa hắn vào huyễn cảnh, hắn chép phương pháp điều chế hương vào huyễn cảnh cho ta."
"Dược Sư quốc có ba loại kì hương. Một loại là Cực Lạc Thiên Hương Dẫn, có thể khiến người ta quên đói quên khát, không biết đau khổ. Một loại là Thiên Thượng Thiên Ngoại Thiên Vô Nhai, sau khi dùng, một ngày như ngàn năm. Còn loại thứ ba chính là Nhân Gian Vô Nghiệm Phản Hồn Hương, có thể khiến u hồn ở lại mãi mãi. Năm đó Dược sư quốc đứng bên bờ vong quốc, quốc chủ trộn hỗn hợp ba loại hương làm cho cả nước đi đến cái chết một cách yên bình, mãi mãi chìm trong ngày lễ cực lạc hôm đó."
"Nhưng huyễn cảnh của Dược sư quốc này cũng đúng nơi đúng chỗ. Ví dụ một hương sư như ta vào huyễn cảnh của ngàn năm trước cũng trở thành một hương sư quèn. Nhưng phương thức điều chế hương quý giá được khắc sau cánh cửa đồng của thần cung chỉ có vương mới mở ra được sau khi cúng tế. Vương không dễ tìm, thần kĩ lưỡng tính phản bội vương càng khó tìm hơn. Tên tướng quân làm hắn vong quốc như ngươi ấy, hai người diễn vở tuồng này đúng là cặp đôi trời sanh nha. Ha ha."
---
Tác giả có đôi lời: Lịch sử của thành Mi Gian tham khảo từ vương thành Hồi Hạc, kỉ vật và thần thoại đều tham khảo từ Ấn Độ.
.
.
.
Danh sách chương